Khí máu là gì? Các công bố khoa học về Khí máu

Khí máu là một khái niệm trong y học đề cập đến sự cân bằng và lưu thông của khí trong máu. Đúng như tên gọi, khí máu bao gồm các chất khí như oxi (O2), cacbon ...

Khí máu là một khái niệm trong y học đề cập đến sự cân bằng và lưu thông của khí trong máu. Đúng như tên gọi, khí máu bao gồm các chất khí như oxi (O2), cacbon lỏng (CO2), nitơ (N2), argon (Ar) và một số chất khí khác. Quá trình cung cấp oxi cho cơ thể và loại bỏ khí thải như CO2 là rất quan trọng để duy trì sự sống. Việc đo lường khí máu có thể thông qua các xét nghiệm máu như đo độ bão hòa oxi, đo lượng oxi tái tạo và đo độ axit lưỡng tính (pH) của máu.
Khí máu là sự kết hợp giữa máu và chất khí trong cơ thể. Chức năng chính của khí máu là đưa các chất khí như oxi (O2) và cacbon lỏng (CO2) đến các tế bào và mô trong cơ thể và lưu giữ lại các khí thải.

Khí máu bao gồm hai thành phần chính: oxyhemoglobin (HbO2) - khí máu giàu oxi và carbaminohemoglobin (HbCO2) - khí máu giàu cacbon lỏng.

Khi thở vào, cơ hô hấp đưa oxi từ không khí vào phổi. Tại đây, oxi sẽ kết hợp với hồng cầu trong máu và tạo thành HbO2. Sau đó, máu giàu oxi này sẽ được đưa đi khắp cơ thể thông qua hệ tuần hoàn máu để cung cấp oxi cho các tế bào và mô.

Trong quá trình sử dụng oxi để sinh hoạt và chức năng cơ bản, các tế bào và mô trong cơ thể sản sinh ra CO2 là sản phẩm chất đổi chứng. CO2 sẽ được vận chuyển thông qua các mạch tĩnh mạch từ các tế bào và mô trở về phổi.

Ở phổi, CO2 sẽ được thoát ra khỏi cơ thể khi ta thở ra. Một phần CO2 sẽ hòa
Khí máu được duy trì và điều chỉnh bởi hệ thống hô hấp và hệ thống tuần hoàn trong cơ thể.

Khi ta thở vào, không khí chứa oxy (O2) đi vào phổi thông qua đường hô hấp. Oxy từ không khí sẽ chuyển sang mạch máu qua màng mỏng trong phổi. Tại đây, oxy sẽ kết hợp với hemoglobin trong hồng cầu để tạo thành oxyhemoglobin (HbO2). Quá trình này xảy ra trong các mạch máu nhỏ gọi là mạch máu biểu mạch.

Sau đó, máu giàu oxy này sẽ được đưa đi khắp cơ thể thông qua hệ thống tuần hoàn máu. Máu sẽ được bơm từ tim thông qua các động mạch đến các tế bào và mô trong cơ thể. Tại các tế bào và mô, oxi sẽ được trao đổi để cung cấp năng lượng cho các quá trình sinh hoạt.

Trong quá trình sử dụng oxi, các tế bào và mô tổng hợp và sinh ra các chất thải, trong đó có cacbon lỏng (CO2). CO2 từ các tế bào và mô sẽ kết hợp với nước trong máu để tạo thành axit cacbonic (H2CO3).

Axit cacbonic sẽ được chuyển đổi thành bicarbonate (HCO3-) và ion hydro (H+). Bicarbonate sẽ được vận chuyển từ các mạch tĩnh mạch thông qua hệ thống tuần hoàn máu về phổi.

Tại phổi, quá trình ngược lại xảy ra. Bicarbonate sẽ chuyển về axit cacbonic và sau đó phân tách thành CO2 và nước. CO2 này sau đó sẽ được thoát ra khỏi cơ thể khi ta thở ra.

Quá trình này của trao đổi khí trong máu được điều chỉnh bởi các cơ chế điều tiết hô hấp, như tốc độ và sâu thở, và được ảnh hưởng bởi nhu cầu cung cấp oxy và loại bỏ CO2 của cơ thể.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "khí máu":

Phát Triển Bộ Dữ Liệu Lượng Mưa Hàng Ngày Lưới Mới Độ Phân Giải Cao (0.25° × 0.25°) cho Giai Đoạn Dài (1901-2010) ở Ấn Độ và So Sánh với Các Bộ Dữ Liệu Tồn Tại Trong Khu Vực Dịch bởi AI
Mausam - Tập 65 Số 1 - Trang 1-18

TÓM TẮT. Nghiên cứu trình bày sự phát triển của bộ dữ liệu lượng mưa lưới theo ngày mới (IMD4) với độ phân giải không gian cao (0.25° × 0.25°, vĩ độ × kinh độ) bao phủ một khoảng thời gian dài 110 năm (1901-2010) trên đất liền chính của Ấn Độ. Nghiên cứu cũng đã so sánh IMD4 với 4 bộ dữ liệu lượng mưa lưới theo ngày khác với các độ phân giải không gian và thời gian khác nhau. Để chuẩn bị dữ liệu lưới mới, các ghi nhận lượng mưa hàng ngày từ 6955 trạm đo mưa ở Ấn Độ đã được sử dụng, đây là số lượng trạm cao nhất được sử dụng cho tới nay trong các nghiên cứu như vậy. Bộ dữ liệu lưới này được phát triển sau khi thực hiện kiểm soát chất lượng các trạm đo mưa cơ bản. So sánh IMD4 với các bộ dữ liệu khác cho thấy rằng các đặc điểm khí hậu và biến đổi của lượng mưa trên Ấn Độ được suy ra từ IMD4 có thể so sánh với dữ liệu lượng mưa lưới theo ngày hiện có. Ngoài ra, phân bố lượng mưa không gian như các khu vực mưa lớn ở các vùng địa hình của bờ biển phía tây và khu vực đông bắc, lượng mưa thấp ở phía tây Ghats, v.v... được thể hiện thực tế hơn và tốt hơn trong IMD4 nhờ độ phân giải không gian cao hơn và mật độ trạm đo mưa cao hơn được sử dụng để phát triển nó.

#Lượng mưa #Dữ liệu lưới #Độ phân giải cao #Phân bố không gian #Ấn Độ #IMD4 #Khí hậu #Biến đổi khí hậu.
Sự vắng mặt của chảy máu khi thăm dò - Một chỉ số của sự ổn định nha chu Dịch bởi AI
Journal of Clinical Periodontology - Tập 17 Số 10 - Trang 714-721 - 1990

Tóm tắt Sau khi điều trị nha chu tích cực, 41 bệnh nhân đã tham gia vào chương trình duy trì trong 2 năm rưỡi với các khoảng thời gian kiểm tra khác nhau từ 2 đến 6 tháng. Vào đầu mỗi lần thăm khám duy trì, các mô nha chu được đánh giá bằng phương pháp "chảy máu khi thăm dò" (BOP). Việc tái thao tác chỉ được thực hiện tại các vị trí có chảy máu khi thăm dò. Tuy nhiên, mảng bám và cao răng trên nướu luôn được loại bỏ. Độ sâu túi thăm dò và mức độ gắn kết thăm dò được ghi lại sau khi điều trị tích cực và vào cuối nghiên cứu. Sự tiến triển của bệnh nha chu được định nghĩa theo sự mất đi của mức độ gắn kết thăm dò ≥ 2 mm. Độ tin cậy của bài kiểm tra BOP như một chỉ báo đã được đánh giá bằng cách tính toán độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính xác và giá trị dự đoán dương tính và âm tính. Mặc dù chỉ có 29% độ nhạy được tính toán cho trường hợp chảy máu thường xuyên, độ đặc hiệu lên tới 88%. Sự thật rằng giá trị dự đoán dương tính cho sự tiến triển của bệnh chỉ đạt 6% và giá trị dự đoán âm tính là 98% cho thấy sự vắng mặt liên tục của BOP là một chỉ số đáng tin cậy cho việc duy trì sức khỏe nha chu.

#nha chu #chảy máu khi thăm dò #sức khỏe nha chu #độ nhạy #độ đặc hiệu
Trường Thụ Cảm Thị Giác của Tế Bào Thần Kinh trong Vỏ Não dưới Thùy Chẩm của Khỉ Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 166 Số 3910 - Trang 1303-1306 - 1969

Tế bào thần kinh ở vùng vỏ não dưới thùy chẩm (vùng TE) của khỉ có trường thụ cảm thị giác rất lớn (trên 10 x 10 độ) và gần như luôn bao gồm vùng hố mắt trung tâm. Một số tế bào kéo dài vào cả hai nửa của trường thị giác, trong khi số khác chỉ giới hạn ở phía cùng bên hoặc phía đối diện. Những tế bào thần kinh này có độ nhạy khác nhau đối với một số chiều kích kích thích sau: kích thước và hình dạng, màu sắc, phương hướng và hướng di chuyển.

#trường thụ cảm thị giác #vỏ não dưới thùy chẩm #tế bào thần kinh #khỉ #kích thước #hình dạng #màu sắc #phương hướng #hướng di chuyển
Những yếu tố dự đoán hành vi phạm tội về khiêu dâm trẻ em và lạm dụng tình dục trẻ em trong mẫu cộng đồng những người có khuynh hướng tình dục trẻ em và vị thành niên Dịch bởi AI
Sexual Abuse: A Journal of Research and Treatment - Tập 23 Số 2 - Trang 212-242 - 2011

Ít có thông tin về các yếu tố phân biệt những người đàn ông hành động theo sở thích tình dục tự nhận diện của họ với trẻ em trước tuổi dậy thì hoặc trẻ em đang tuổi dậy thì so với những người không hành động. Thậm chí còn ít thông tin hơn về những kẻ ấu dâm hoặc vị thành niên mà không tham gia vào hệ thống tư pháp hình sự. Trong nghiên cứu này, một mẫu 155 kẻ ấu dâm và vị thành niên tự giới thiệu đã được tuyển chọn từ cộng đồng. Tất cả người tham gia đều đáp ứng tiêu chí DSM-IV-TR về ấu dâm (hoặc rối loạn tình dục không xác định khác cho những người có xu hướng tình dục đối với trẻ em đang tuổi dậy thì). Hai bộ so sánh nhóm đã được thực hiện trên các biến sociodemographic và các biện pháp của các yếu tố rủi ro động. Bộ so sánh đầu tiên dựa trên hoạt động gần đây và so sánh những người đàn ông đã phạm tội khiêu dâm trẻ em hoặc lạm dụng tình dục trẻ em trong sáu tháng qua với những người không phạm tội trong cùng khoảng thời gian. Bộ so sánh thứ hai dựa trên lịch sử phạm tội trọn đời (không bao gồm sáu tháng gần đây nhất) và so sánh những kẻ phạm tội khiêu dâm trẻ em với những kẻ phạm tội lạm dụng tình dục trẻ em và những người đàn ông đã phạm cả hai loại tội phạm. Tổng thể, có nhiều điểm tương đồng hơn là sự khác biệt giữa các nhóm.

#thuộc tính của tội phạm khiêu dâm trẻ em #lạm dụng tình dục trẻ em #ấu dâm #vị thành niên #yếu tố rủi ro động #mẫu cộng đồng
Phân tích khía cạnh kỹ thuật và hiệu quả tài chính của mô hình nuôi tôm sú (Penaeus monodon) kết hợp với cua biển (Scylla paramamosain) ở huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 37 - Trang 89-96 - 2015
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 8-12/2014, thông qua phỏng vấn trực tiếp 40 hộ nuôi tôm sú kết hợp với cua biển ở huyện Năm Căn,tỉnh Cà Mau.Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả tài chính của mô hình nuôi và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của mô hình.Kết quả cho thấy, diện tích trung bình của các hộ nuôi 1,5 ha/ao, mương bao chiếm 28,6%, độ sâu mực nước ở mương 1,1 m và trảng là 0,5 m.Số lần thả tôm giống và cua trong năm lần lượt là 5,8 và 4,6 lần;tương ứng với mật độ tôm là 19,0 con/m2 và cua là 0,5 con/m2. Năng suất trung bình của tôm sú,cua, tôm tự nhiên và cá lần lượt là: 365; 76,9; 109 và 40,3 kg/ha/năm. Trung bình tổng chi phí của mô hình nuôi 26,6 triệu đồng/ha/năm; tổng thu nhập bình quân 118,8 triệu đồng/ha/năm; lợi nhuận đạt 91,3 triệu đồng/ha/năm và tỷ suất lợi nhuận tương ứng là 3,7. Có 3 yếu tố tác động làm tăng hiệu quả của mô hình nuôi gồm: (i) sử dụng chế phẩm sinh học; (ii) thả tôm không vượt quá 8 lần/năm và (iii) thả cua không nhiều hơn 3 lần/năm. Kết quả nghiên cứu này là cơ sở cho việc khuyến cáo các hộ nuôi tôm sú kết hợp với cua biển ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh Cà Mau nói riêng.
#tôm sú #Penaneus monodon #cua biển #Scylla paramamosain #hiệu quả tài chính
Thiết kế dựa theo Lyapunov điều khiển theo mô hình mẫu cho hệ thống treo chủ động 1/2 xe
Measurement, Control, and Automation - Tập 5 Số 1 - Trang 22-29 - 2024
Bài báo này đề xuất phương pháp thiết kế điều khiển theo mô hình mẫu (MRAC) cho hệ thống treo chủ động khi chưa biết giá trị của độ cứng lò xo và hệ số cản với mục tiêu là nâng cao chất lượng của hệ thống treo. Đầu tiên, mô hình ½ xe của hệ thống treo chủ động được trình bày, sau đó mô hình mẫu ½ xe của hệ thống treo sử dụng khái niệm “skyhook damping” sẽ được đề xuất. Luật điều khiển và luật thích nghi tham số cho MRAC để đảm bảo đáp ứng của hệ thống treo chủ động bám theo đáp ứng của mô hình mẫu sẽ được dẫn ra dựa trên tiêu chuẩn ổn định Lyapunov. Để đánh giá ưu điểm của mô hình mẫu được đề xuất cũng như sự hiệu quả của MRAC được thiết kế, đáp ứng của mô hình mẫu, của hệ thống treo thụ động và của hệ thống treo chủ động sẽ được phân tích và đánh giá cả trong miền tần số và miền thời gian. Các kết quả thu được thể hiện rằng hệ thống treo chủ động với MRAC cung cấp chất lượng tốt hơn về độ êm dịu, độ lệch hệ thống treo so với hệ thống treo thụ động
#Suspension system #half-car model #MRAC #Lyapunov stability
Nghiên cứu tích hợp mô hình lan truyền dầu vào bản đồ số 3D cho khu vực khí - điện - đạm cà mau để phục vụ công tác ứng phó sự cố tràn dầu
Tạp chí Dầu khí - Tập 12 - Trang 50-57 - 2014
Các mô hình lan truyền dầu phổ biến trên thế giới hiện nay chủ yếu áp dụng cho các sự cố tràn dầu trên biển. Đối với từng khu vực sông, do điều kiện địa hình và chế độ dòng chảy phức tạp cần phải có nghiên cứu chi tiết cho từng khu vực, để có thể xây dựng mô hình lan truyền dầu hiệu quả. Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã xây dựng mô hình lan truyền dầu cho hệ thống sông kênh khu vực bán đảo Cà Mau, song đây là mô hình lan truyền dầu một chiều, với bản đồ nền đơn giản không thể hiện được đặc điểm của các nhánh sông trên khu vực. Ngoài ra, Viện Dầu khí Việt Nam đã xây dựng và chuyển giao phần mềm bản đồ số 3D cho hệ thống sông kênh của bán đảo Cà Mau. Với nhu cầu cấp thiết của thực tế trong công tác ứng phó sự cố tràn dầu cũng như tăng cường phát huy hiệu quả của những nghiên cứu hiện có, bài báo sẽ giới thiệu sự tích hợp kết quả của mô hình lan truyền dầu vào bản đồ số.
#Oil spill incident #oil spill model #oil spill response #Ca Mau peninsula
KHẢO SÁT MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỨC ĐỘ HỒI PHỤC KHI RA VIỆN VỚI MỘT SỐ THANG ĐIỂM CỦA BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ NHỒI MÁU NÃO KHÔNG DO NGUYÊN NHÂN TỪ TIM
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 502 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Nhận xét các yếu tố nguy cơ, đặc điểm lâm sàng và các thang điểm đột quỵ của BN Đột quỵ nhồi máu não cấp không do nguyên nhân từ tim và khảo sát mối liên quan giữa mức độ hồi phục khi ra viện với các thang điểm đột quỵ. Đối tượng và phương pháp: 159 BN Đột quỵ nhồi máu não lần đầu không do nguyên nhân từ tim được điều trị tại Khoa Đột quỵ, Bệnh viện Quân y 103 từ tháng 6/2020 đến tháng 1/2021, thời gian nhập viện dưới 7 ngày tính từ khi khởi phát. Kết quả: Các yếu tố nguy cơ đột quỵ: tuổi ≥ 55 83,6%, nam 64,8%, tăng huyết áp 51,6%, đái tháo đường 11,9%, rối loạn lipid 26,4%, béo phì 15,7%, hút thuốc lá 29,6% và uống rượu bia 30,4%. Các thang điểm lúc nhập viện: Điểm GCS trung bình 14,41 ± 1,31 GCS = 15 điểm là 74,2%; điểm NIHSS trung bình 7,47 ± 5,80, NIHSS < 5 điểm là 39,6% và điểm ASPECT trung bình 7,87 ± 1,39, ASPECT > 7 là 71,7%. Lúc ra viện điểm mRS trung bình là 2,19± 1,34, mRS ≤ 2 là 72,3%. Có mối liên quan giữa mức độ hồi phục khi ra viện theo thang điểm mRS với thang điểm GCS (p = 0,002, OR = 3 (1,5-6,8)) , NIHSS (p < 0,01, OR = 7,2 (2,8 – 18,2)) và ASPECT (p=0,029, OR = 2,3 (1,1-4,7)). Tuy nhiên khi phân tích hồi quy logistic đa biến thì chỉ có thang điểm NIHSS là có tương quan với mRS (r < 0,001) và dự báo được kết quả hồi phục ra viện. Kết luận: Thang điểm GCS, NIHSS và ASPECT có mối liên quan với mức độ hồi phục khi ra viện được đánh giá theo thang điểm mRS. Tuy nhiên chỉ có thang điểm NIHSS có giá trị hậu dự báo được mức độ hồi phục lúc ra viện.
#Đột quỵ nhồi máu não #hồi phục #mRS #NIHSS #GCS #ASPECT
PHÂN TÍCH KHÍA CẠNH KỸ THUẬT VÀ TÀI CHÁNH CỦA MÔ HÌNH NUÔI TÔM SÚ (PENAEUS MONODON) THÂM CANH Ở SÓC TRĂNG, BẠC LIÊU VÀ CÀ MAU
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - - Trang 114-122 - 2014
Phân tích khía cạnh kỹ thuật và tài chánh của mô hình nuôi tôm sú thâm canh trong vùng chịu tác động của biến đổi khí hậu, nghiên cứu được thực hiện từ tháng 1 ? 3 năm 2012 thông qua việc phỏng vấn trực tiếp 93 hộ nuôi tôm sú ở Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau. Kết quả phân tích cho thấy không có sự khác biệt về tổng diện tích trang trại ở 3 tỉnh. Tuy nhiên có sự khác biệt về diện tích trung bình ao nuôi ở 3 tỉnh, thấp nhất ở Bạc Liêu với 0,30 ha/ao và cao nhất ở Sóc Trăng 0,41 ha/ao. Độ sâu mực nước ao nuôi ở Sóc Trăng là thấp nhất chỉ 1,30 m, sâu nhất với 1,54 m ở Cà Mau, ở Bạc Liêu là 1,40 m. Mật độ thả nuôi cao nhất ở Cà Mau với 24,87 con/m2, Sóc Trăng là 23,33 con/m2, và thấp nhất là Bạc Liêu chỉ 17,68 con/m2. Hệ số chuyển hóa thức ăn ở các hộ nuôi tôm ở Cà Mau là thấp nhất với FCR là 1,45, không khác biệt ở Sóc Trăng là 1,51 nhưng khác biệt so với Bạc Liêu là 1,62 (p < 0,05). Năng suất tôm nuôi thấp nhất ở Sóc Trăng với 2,43 tấn/ha/vụ, ở Bạc Liêu là 4,12 tấn/ha/vụ, cao nhất ở Cà Mau với 4,87 tấn/ha/vụ. Tổng chi phí và lợi nhuận bình quân thấp nhất ở Sóc Trăng với 206,01 triệu đ/ha/vụ và 134,98 triệu đ/ha/vụ, Bạc Liêu với 334,27 triệu đ/ha/vụ và 289,06 triệu đ/ha/vu và Cà Mau là 340,58 triệu đ/ha/vụ và 392,89 triệu đ/ha/vụ. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi và lợi nhuận mô hình cũng được đề cập trong nghiên cứu này.
#Tôm sú (Penaeus monodon) #nuôi thâm canh #năng suất #sản lượng #chi phí #lợi nhuận
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA HỘI CHỨNG NGỪNG THỞ KHI NGỦ Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 522 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của hội chứng ngừng thở khi ngủ ở bệnh nhân đái tháo đường type 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 69 bệnh nhân đái tháo đường type 2 được đo đa ký giấc ngủ hoặc đa ký hô hấp tại Bệnh viện Bạch Mai. Kết quả: Tỷ lệ mắc hội chứng ngừng thở khi ngủ ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 là 85,5%. BMI tăng ở nhóm đái tháo đường có hội chứng ngừng thở khi ngủ hơn là nhóm không có hội chứng ngừng thở khi ngủ. Điểm sàng lọc STOP-BANG và Epworth đều cao hơn ở nhóm bệnh nhân có hội chứng ngừng thở khi ngủ (HCNTKN) với p < 0,05. Không có sự khác biệt về HbA1c và đường máu lúc đói giữa 2 nhóm bệnh nhân. Nhóm bệnh nhân đái tháo đường type 2 mắc hội chứng ngừng thở khi ngủ có chỉ số ngừng thở/giảm thở (AHI) trung bình là 33,8 ± 25 và chỉ số khử bão hòa oxy (ODI) là 39 ± 31,2, cao hơn so với nhóm không có ngừng thở với p< 0,05. Bên cạnh đó sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) còn thấy ở chỉ số SpO2 thấp nhất ở hai nhóm bệnh nhân nghiên cứu, chỉ số này cũng cao hơn ở nhóm có hội chứng ngừng thở khi ngủ. Kết luận: Hội chứng ngừng thở khi ngủ gặp nhiều ở bệnh nhân đái tháo đường type 2. STOP-BANG và Epworth có giá trị cao trong sàng hội chứng ngừng thở khi ngủ ở bệnh nhân đái tháo đường type 2.
#Hội chứng ngừng thở khi ngủ #Đái tháo đường type 2 #AHI #HbA1C #đường máu lúc đói #ODI #STOP-BANG #Epworth.
Tổng số: 105   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10